Siêu âm thai là gì? Các công bố khoa học về Siêu âm thai

Siêu âm thai là một phương pháp sử dụng sóng siêu âm để tạo hình hình ảnh của thai nhi trong bụng mẹ. Qua việc phản xạ sóng siêu âm từ các mô trong cơ thể, các ...

Siêu âm thai là một phương pháp sử dụng sóng siêu âm để tạo hình hình ảnh của thai nhi trong bụng mẹ. Qua việc phản xạ sóng siêu âm từ các mô trong cơ thể, các hình ảnh sẽ được tạo ra và hiển thị lên màn hình. Phương pháp này giúp đánh giá sự phát triển của thai nhi, xác định tuổi thai, kiểm tra sự tồn tại của bất kỳ vấn đề sức khỏe nào và theo dõi tình trạng thai nhi trong suốt quá trình mang thai.
Trong siêu âm thai, một gel được áp vào vùng bụng của mẹ để truyền tải sóng siêu âm. Máy siêu âm sử dụng một thiết bị gọi là transducer, được dùng để phát và thu lại sóng siêu âm. Khi sóng siêu âm gặp mặt phẳng của các cơ quan và mô trong bụng mẹ, nó sẽ phản xạ trở lại và transducer sẽ thu sóng siêu âm điều này tạo ra hình ảnh trên màn hình máy siêu âm.

Siêu âm thai cung cấp thông tin chi tiết về một số yếu tố quan trọng như:
1. Tuổi thai: Sóng siêu âm có thể đo được kích thước của thai nhi và dựa trên đó xác định tuổi thai chính xác.
2. Quá trình phát triển: Siêu âm giúp xem xét sự phát triển của các bộ phận, cơ quan và hệ thống cơ thể của thai nhi. Nó cung cấp thông tin về kích thước và hình dạng của tai, mắt, tim, não và các cơ quan khác, cũng như sự phát triển của xương và cơ.
3. Kiểm tra vấn đề sức khỏe: Siêu âm thai có thể phát hiện các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn hoặc bất thường của thai nhi. Điều này bao gồm xác định các dị tật cơ quan, đo tuổi thai trong trường hợp tình trạng thai không phát triển đúng chu kỳ, kiểm tra tình trạng tâm thu và tâm trương, xác định sự tồn tại của các vết rạn nứt hoặc khối u trong tử cung và các vấn đề khác có liên quan đến sức khỏe của thai nhi và mẹ.
4. Xác định giới tính: Ở một giai đoạn nhất định, siêu âm thai có thể xác định giới tính của thai nhi. Tuy nhiên, đây chỉ là một dự đoán và không chính xác 100%.

Siêu âm thai là một công cụ quan trọng trong chăm sóc thai kỳ và đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo sức khỏe và phát triển của thai nhi.
Trong quá trình siêu âm thai, mẹ sẽ nằm nghiêng một chút người và áp một lớp gel mỏng lên vùng bụng. Gel này giúp truyền tải sóng siêu âm từ transducer vào cơ thể mẹ. Transducer có hai phần, một phần phát sóng siêu âm và một phần thu sóng siêu âm.

Khi sóng siêu âm được phát ra, chúng sẽ đi qua da và các mô mềm khác trong cơ thể mẹ. Khi gặp phản xạ từ các cơ quan, cấu trúc và mô trong bụng mẹ, sóng siêu âm sẽ quay trở lại transducer. Transducer sẽ thu sóng siêu âm và chuyển đổi chúng thành hình ảnh hữu ích trên màn hình máy siêu âm.

Trong quá trình siêu âm, bác sĩ hoặc nhân viên y tế di chuyển transducer trên vùng bụng mẹ để lấy được nhiều góc nhìn khác nhau của thai nhi. Hình ảnh này sẽ hiển thị trực tiếp trên màn hình máy siêu âm và có thể được ghi lại để xem lại sau này.

Siêu âm thai cho phép bác sĩ và nhân viên y tế xem rõ hơn về các cơ quan và cấu trúc của thai nhi. Điều này giúp xác định kích thước và đo lường các phần cơ thể của thai nhi, xác định tuổi thai, kiểm tra tình trạng tim, xem xét sự phát triển của cơ, xương và cơ quan, đánh giá sự di chuyển của thai nhi và kiểm tra các khối u, vết rạn nứt hoặc bất thường khác.

Siêu âm thai là một phương pháp an toàn, không xâm lấn và không gây đau đớn cho thai nhi và mẹ. Nó thường được thực hiện như một phần của chăm sóc thai kỳ thường xuyên để đảm bảo sự phát triển và sức khỏe của thai nhi trong suốt quá trình mang thai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "siêu âm thai":

Các dấu hiệu siêu âm đơn lẻ để phát hiện hội chứng Down ở thai nhi trong tam cá nguyệt thứ hai của thai kỳ. Dịch bởi AI
Journal of Ultrasound in Medicine - Tập 20 Số 10 - Trang 1053-1063 - 2001

Để xác định xem "các dấu hiệu" siêu âm có liên quan đến hội chứng Down ở thai nhi trong tam cá nguyệt thứ hai và để ước tính mức độ rủi ro của từng dấu hiệu bằng cách sử dụng tỷ lệ khả năng.

Các phát hiện siêu âm ở tam cá nguyệt thứ hai (14-20 tuần) ở 186 thai nhi có trisomy 21 đã được so sánh với một nhóm đối chứng gồm 8728 thai nhi liên tiếp.

Sáu dấu hiệu được đánh giá: dày nếp gấp gáy, ruột siêu âm sáng, xương đùi ngắn, xương cánh tay ngắn, điểm phản âm trong tim sáng, và giãn đài thận.

Các bất thường chính hoặc cấu trúc đã được quan sát ở 31 thai nhi có trisomy 21 (16.7%) và 53 thai nhi đối chứng (0.6%) (P< .001). Một loại phát hiện siêu âm nào đó (bất thường chính, dấu hiệu nhỏ, hoặc cả hai) đã được quan sát ở 68.8% thai nhi có trisomy 21 so với 13.6% thai nhi đối chứng (P < .001). Một dấu hiệu nhỏ hoặc "mềm" đơn lẻ là phát hiện siêu âm duy nhất ở 42 (22.6%) trong số 186 thai nhi có trisomy 21 so với 987 (11.3%) trong số 8728 thai nhi đối chứng (P < .001). Dày nếp gấp gáy (P < .001; tỷ lệ khả năng, 11) và ruột siêu âm sáng (P < .001; tỷ lệ khả năng, 6.7) cho thấy sự liên kết mạnh nhất với trisomy 21 như các dấu hiệu đơn lẻ, theo sau là xương cánh tay ngắn (tỷ lệ khả năng, 5.1), điểm phản âm trong tim sáng (tỷ lệ khả năng, 1.8), xương đùi ngắn (tỷ lệ khả năng, 1.5), và giãn đài thận (tỷ lệ khả năng, 1.5). Điểm phản âm trong tim sáng là dấu hiệu đơn lẻ phổ biến nhất ở cả thai nhi bị ảnh hưởng (7.1%) và thai nhi đối chứng (3.9%) nhưng mang rủi ro thấp (P= .046; tỷ lệ khả năng, 1.8).

Một dấu hiệu mềm đơn lẻ thường được gặp trong tam cá nguyệt thứ hai ở các thai nhi có trisomy 21. Rủi ro của hội chứng Down ở thai nhi, phản ánh qua tỷ lệ khả năng, đã được xác định cho 6 dấu hiệu đơn lẻ. Thông tin này có thể được kết hợp với rủi ro a priori để ước tính rủi ro cho bệnh nhân cá nhân về hội chứng Down ở thai nhi.

Siêu âm trong chẩn đoán trước sinh: tranh cãi xung quanh việc sàng lọc siêu âm định kỳ cho các dị dạng thai nhi ở tam cá nguyệt thứ hai Dịch bởi AI
Prenatal Diagnosis - Tập 22 Số 4 - Trang 285-295 - 2002
Tóm tắt

Việc sử dụng siêu âm cho việc sàng lọc dị dạng thai nhi định kỳ đã gây ra nhiều tranh cãi ngay từ những ngày đầu của nó, do tỷ lệ chẩn đoán rất đa dạng được công bố, tức là từ 13% đến 82%, trung bình là 27,5%. Một cuộc tổng quan các nghiên cứu hiện có được đề xuất nhằm đánh giá khách quan hiệu quả của siêu âm, cũng như xem xét các khía cạnh kinh tế, đạo đức và phương pháp học như là những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách sàng lọc định kỳ. Tính hữu ích của việc chẩn đoán dị dạng thai nhi trước khi sinh được nêu lên, bao gồm ý kiến thứ hai, xét nghiệm karyotype và thảo luận case đa chuyên ngành trước khi can thiệp. Phương pháp và tài liệu của các nghiên cứu được xem xét có sự khác biệt đáng kể và có thể ảnh hưởng đến kết quả độ nhạy, chẳng hạn như lựa chọn mẫu dân số và chọn lọc các bà bầu, tuổi thai tại thời điểm sàng lọc, phân bố dị dạng giữa các hệ thống hoặc đường, việc loại trừ một số dị dạng thai nhi và thực hành khám nghiệm tử thi định kỳ. Sự hiệu quả của các nghiên cứu sàng lọc được so sánh, trong đó có các nghiên cứu Radius và Eurofetus. Độ nhạy trung bình cuối cùng được xem xét là thỏa đáng trong thực hành hàng ngày khi được thực hiện bởi đội ngũ được đào tạo. Tầm quan trọng của các yếu tố bổ sung để sàng lọc thành công được nhấn mạnh như giáo dục, chất lượng thiết bị và việc kiểm tra siêu âm thai nhi ở các tuần tuổi thai khác nhau để hiểu rõ hơn về lịch sử tự nhiên của hình thái thai nhi. Bản quyền © 2002 John Wiley & Sons, Ltd.

Sàng lọc siêu âm trong tam cá nguyệt thứ hai đối với các bất thường nhiễm sắc thể Dịch bởi AI
Prenatal Diagnosis - Tập 22 Số 4 - Trang 296-307 - 2002
Tóm tắt

Việc sử dụng siêu âm thai đã chứng minh hiệu quả trong chẩn đoán trước sinh các bất thường nhiễm sắc thể. Dấu hiệu siêu âm đầu tiên của hội chứng Down, nếp gấp gáy dày, đã được mô tả lần đầu tiên vào năm 1985. Kể từ đó, đã có nhiều dấu hiệu siêu âm được xác định là liên quan đến hội chứng Down. Siêu âm di truyền, liên quan đến việc tìm kiếm chi tiết các dấu hiệu siêu âm của tình trạng phối hợp nhiễm sắc thể, có thể được sử dụng để xác định những thai nhi có nguy cơ cao về bất thường nhiễm sắc thể và, khi bình thường, có thể được sử dụng để giảm nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể trong một thai kỳ khi không có dấu hiệu siêu âm nào được xác định. Kết hợp siêu âm di truyền với sàng lọc huyết thanh mẹ có thể là phương pháp tốt nhất để đánh giá nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể cho những phụ nữ mong muốn được đánh giá trong tam cá nguyệt thứ hai. Trisomy 18, Trisomy 13 và triploidy thường liên quan đến các bất thường được xác định qua siêu âm và có tỷ lệ phát hiện trước sinh cao. Tuy nhiên, việc sử dụng các dấu hiệu siêu âm đã được mô tả ở những phụ nữ có nguy cơ thấp cần được điều tra thêm, trong khi những bệnh nhân có nguy cơ cao về bất thường nhiễm sắc thể do tuổi mẹ lớn hoặc sàng lọc huyết thanh bất thường có thể hưởng lợi từ sàng lọc siêu âm di truyền nhằm tìm các dấu hiệu siêu âm của bất thường nhiễm sắc thể để điều chỉnh nguy cơ cơ bản của thai nhi bị ảnh hưởng. Bản quyền © 2002 John Wiley & Sons, Ltd.

#siêu âm thai #hội chứng Down #bất thường nhiễm sắc thể #siêu âm di truyền #sàng lọc huyết thanh mẹ
Siêu âm qua âm đạo trong việc phát hiện sản phẩm thai còn sót sau khi sảy thai tự phát ở tam cá nguyệt đầu tiên Dịch bởi AI
Journal of Clinical Ultrasound - Tập 30 Số 7 - Trang 428-432 - 2002
Tóm tắtMục đích

Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá việc sử dụng siêu âm qua âm đạo để phát hiện các sản phẩm thai còn sót lại sau khi sảy thai tự phát ở tam cá nguyệt đầu tiên.

Phương pháp

Tất cả phụ nữ đến bệnh viện của chúng tôi với trường hợp sảy thai tự phát ở tam cá nguyệt đầu tiên đã được đưa vào nghiên cứu này và tiến hành siêu âm qua âm đạo. Chẩn đoán siêu âm về "sảy thai không hoàn toàn" dựa trên độ dày niêm mạc tử cung hai lớp lớn hơn 8 mm. Chẩn đoán cuối cùng về sảy thai hoàn toàn hoặc không hoàn toàn dựa trên các phát hiện mô bệnh học tại thời điểm nạo buồng tử cung. Độ nhạy và độ đặc hiệu của cả hai phương pháp thăm khám lâm sàng và siêu âm trong việc phát hiện các sản phẩm thai đã được đánh giá.

Kết quả

Tổng cộng có 113 phụ nữ được tuyển chọn, trong đó 14 người bị loại vì nhiều lý do khác nhau. Trong số 52 phụ nữ bị sảy thai không hoàn toàn lâm sàng, chỉ 50% có sản phẩm thai còn sót lại. Việc sử dụng siêu âm qua âm đạo đã dẫn đến sự giảm 29% (15/52) can thiệp phẫu thuật ở những phụ nữ này. Mặt khác, 30% (14/47) phụ nữ có chẩn đoán lâm sàng là sảy thai hoàn toàn lại có sản phẩm thai còn sót lại. Độ nhạy và độ đặc hiệu của trạng thái cổ tử cung trong việc phát hiện các sản phẩm thai còn sót lần lượt là 65% và 56%, trong khi độ nhạy và độ đặc hiệu tổng thể của kiểm tra siêu âm qua âm đạo (độ dày niêm mạc tử cung hai lớp 8 mm hoặc ít hơn) là 100% và 80% tương ứng.

Kết luận

Siêu âm qua âm đạo là một công cụ bổ sung hữu ích cho sự đánh giá lâm sàng ở những phụ nữ trải qua sảy thai tự phát ở tam cá nguyệt đầu tiên. Nếu phương pháp này được sử dụng để đánh giá buồng tử cung, trạng thái cổ tử cung có thể bị bỏ qua. Việc sử dụng siêu âm qua âm đạo nên giúp giảm thiểu việc gây mê toàn thân không cần thiết và nạo tử cung.

#siêu âm qua âm đạo #sản phẩm thai còn sót #sảy thai tự phát #tam cá nguyệt đầu tiên #độ nhạy #độ đặc hiệu
Các yếu tố dự đoán tốt nhất của siêu âm đen trắng kết hợp với Doppler màu trong chẩn đoán sản phẩm phôi thai còn lại Dịch bởi AI
Journal of Clinical Ultrasound - Tập 39 Số 3 - Trang 122-127 - 2011
Tóm tắtMục tiêu:

Xác định các yếu tố dự đoán tốt nhất về sự hiện diện của các sản phẩm phôi thai còn lại (RPOC) trên hình ảnh siêu âm qua âm đạo màu xám và Doppler màu.

Phương pháp:

Đây là một nghiên cứu hồi cứu trên 91 bệnh nhân liên tiếp đã trải qua siêu âm qua âm đạo (TVS) với Doppler màu để đánh giá sự hiện diện của RPOC. Hình ảnh của các nghiên cứu TVS được xem lại bởi hai bác sĩ chẩn đoán hình ảnh trong sự đồng thuận mà không biết kết quả cuối cùng. Dữ liệu về một số biến số bao gồm khối lượng có thể đo được ở niêm mạc tử cung và sự tăng cường mạch máu màu tại chỗ đã được thu thập như là các yếu tố dự đoán RPOC. Độ tuổi của bệnh nhân dao động từ 17 đến 48 tuổi (trung bình, 31,8 ± 6,8) và tuổi thai từ 5 đến 24 tuần (trung bình, 9,2 ± 3,8). Ba mươi sáu bệnh nhân được xác nhận là có RPOC qua nạo hút (D&C) và bệnh lý học. Năm mươi lăm bệnh nhân được coi là âm tính, trong đó 9 được xác định dựa trên kết quả D&C và 46 dựa trên cơ sở lâm sàng.

Kết quả:

Các chỉ số độ nhạy, độ đặc hiệu, độ dự đoán âm tính và dương tính cùng độ chính xác lần lượt là 81% (CI: 68%–94%), 71% (CI: 59%–83%), 85% (CI: 74%–95%), 64% (CI: 50%–78%) và 75% (CI: 66%–84%) để phát hiện RPOC khi có sự hiện diện của khối lượng. Các số liệu tương ứng cho sự hiện diện của mạch máu màu tại chỗ là 94% (CI: 87%–100%) (p = 0.07), 67% (CI: 55%–80%) (p > 0.05), 95% (CI: 88%–100%) (p = 0.1), 65% (CI: 52%–78%) (p > 0.05) và 78% (CI: 70%–87%) (p > 0.05). Trong số các bệnh nhân có RPOC được xác định qua bệnh lý học, năm người có mạch máu tại chỗ tăng và không có khối và không ai có khối mà không có mạch máu tại chỗ tăng.

Kết luận:

Một vùng có mạch máu tại chỗ tăng với hoặc không có khối lượng là yếu tố dự đoán tốt nhất về sự hiện diện của RPOC. © 2011 Wiley Periodicals, Inc. J Clin Ultrasound, 2011

Giá trị của siêu âm Doppler động mạch tử cung ở tuổi thai 11-13 tuần 6 ngày ở sản phụ thai nghén nguy cơ cao trong dự đoán sớm tiền sản giật
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 79-82 - 2014
Đánh giá giá trị dự đoán sớm TSG thông qua chỉ số trở kháng RI , chỉ số xung PI của Doppler ĐMTC trên những sản phụ thai nghén nguy cơ cao. Trong thời gian từ 1/1/2012 – 15/9/2012 có 113 bệnh nhân được lấy vào nghiên cứu trong đó có 40 trường hợp xuất hiện các dấu hiệu TSG sau 32 tuần tuổi thai, chiếm 35,4 % và 73 thai phụ không có biểu hiện bệnh lý bất thường cho tới khi sinh chiếm 64,6% Tuổi trung bình của các bà mẹ trong nghiên cứu là 31,2 với nhóm TSG là 31,7 và nhóm thai nghén bình thường là 30,8, sự khác biệt về tuổi giữa 2 nhóm chưa có ý nghĩa thống kê. Tuổi thai trung bình ở thời điểm làm siêu âm là 12 tuần 5 ngày, nhỏ nhất là 11 tuần và lớn nhất là 13 tuần 6 ngày. Ngưỡng sàng lọc phù hợp để dự đoán Tiền sản giật đối với chỉ số kháng RI động mạnh tử cung phải là 0,69 với độ nhạy 67,5%, độ đặc hiệu 61,64 %, ĐMTC trái là 0,70 với độ nhạy 65%, độ đặc hiệu 61,64 %.Với chỉ số xung PI của ĐMTC phải là 1,39 với độ nhạy 65%, độ đặc hiệu 65,75 %, với ĐMTC trái là 1,43 với độ nhạy 67,50 %, độ đặc hiệu 67,12 %. Kết luận: Siêu âm Doppler ĐMTC ở tuổi thai 11 – 13 tuần 6 ngày rất có giá trị trong dự đoán sớm TSG ở những thai phụ thai nghén nguy cơ cao.
#Tiền sản giật #Doppler #thai nghén nguy cơ cao
KẾT QUẢ TÁN SỎI QUA DA ĐƯỜNG HẦM NHỎ DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM ĐIỀU TRỊ SỎI THẬN TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm điều trị sỏi thận tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 139 bệnh nhân được tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm điều trị sỏi thận tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 5 năm 2022. Các bệnh nhân được theo dõi, thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 25.0. Kết quả: Tuổi trung bình: 52,99 ± 11,64 tuổi; kích thước sỏi trung bình là 28,96 ± 10,61 mm; kích thước sỏi ≥ 30 mm chiếm 43,9%. Số lượng sỏi nhiều hơn 1 viên trở lên chiếm 66,2%. Vị trí sỏi thường gặp là sỏi đài bể thận 80,6% (112/139 BN); điểm GSS độ III và IV chiếm 60,4%. Tỷ lệ sạch sỏi sau tán lần 1 đạt 53,2%, 20,9% được tán sỏi qua da lần 2; tỷ lệ sạch sỏi sau 1 tháng là 63,3%. Tỷ lệ tai biến, biến chứng 15,1%; bao gồm sốt sau phẫu thuật 10,1%; chảy máu không truyền máu 0,7%; chảy máu phải truyền máu 2,9%; tụ dịch quanh thận 7,2%; nút mạch do tổn thương mạch thận 0,7%; chấn thương lách 0,7%; sốc nhiễm khuẩn 0,7%. Kết quả điều trị đạt tốt chiếm 59,7%; trung bình 40,3%; không có kết quả xấu. Kết luận: Tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm là phương pháp hiệu quả và an toàn trong điều trị sỏi thận.
#Sỏi thận #tán sỏi qua da đường hầm nhỏ.
Bước đầu nghiên cứu xác định một số nguyên nhân phù thai - rau không do miễn dịch
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 1 - Trang 22 - 25 - 2016
Mục tiêu: Xác định một số nguyên nhân của phù thai rau không do nguyên nhân miễn dịch tại trung tâm chẩn đoán trước sinh Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Mô tả tiến cứu 229 sản phụ phù thai rau được siêu âm chẩn đoán tại Trung tâm chẩn đoán trước sinh Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Kết quả: Tuổi trung bình của sản phụ 27,05±4,79 tuổi,tỷ lệ có tiền sử đẻ bị phù là 14,41%, tuổi thai trung bình chẩn đoán bệnh 24,20±6,55 tuần, xác định được nguyên nhân trên siêu âm 32,75%, kết hợp siêu âm với xét nghiệm xác định được nguyên nhân (69,87%), trong đó nhóm nguyên nhân bệnh huyết cầu tố (αthalassemia) 31%, bất thường hệ bạch huyết (Hygroma kystique) 15,28%, bất thường tim mạch lồng ngực 13,1%, Các nối thông mạch máu 5,68%, nhiễm trùng 3,06%, bất thường NST 1,75%, không rõ nguyên nhân 30,13%. Kết luận: Phù thai rau bệnh thường biểu hiện muộn có liên quan đến tỷ lệ tiền sử đẻ con bị phù cao, phần lớn xác định được nguyên nhân nhờ siêu âm hình thái thai kỳ kết hợp với xét nghiệm máu, chọc ối làm nhiễm sắc đồ.
#Siêu âm #phù thai rau.
NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH VÀNH GÂY HẸP CÓ Ý NGHĨA BẰNG CHỤP CẮT LỚP KẾT QUANG (OTC) TRƯỚC CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KIÊN GIANG
Đặt vấn đề: Chụp cắt lớp kết quang là phương tiện hình ảnh học với độ phân giải cao giúp xác định hình thái học tổn thương, đường kính động mạch vành tham khảo đầu gần và đầu xa, và độ dài của tổn thương động mạch vành. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hình thái học tổn thương động mạch vành, độ dài động tổn thương và đường kính tham khảo đoạn gần và đoạn xa của tổn thương động mạch vành. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang những bệnh nhân hẹp mạch vành có ý nghĩa có chỉ định can thiệp từ tháng 4/2022 đến tháng 5/2023 tại Bệnh viện đa khoa Kiên Giang. Kết quả: Tổng cộng 27 trường hợp với 28 tổn thương hẹp có ý nghĩa được tiến hành phân tích. Tuổi trung bình 63,5±2,26, nữ chiếm 33,33%. Tỷ lệ hình thái tổn thương động mạch vành bao gồm xơ vữa canxi hóa 71,42%, xơ vữa lipid 32,14%, xơ vữa xơ sợi 57,14%, huyết khối đỏ 10,71%, huyết khối trắng 0%, bóc tách động mạch vành 21,43%. Độ dài tổn thương trung bình 39,43±3,71mm. Đường kính tham khảo đoạn xa và đoạn gần lần lượt là 2,85±0,98mm và 3,62±0,12mm. Kết luận: Chụp cắt lớp kết quang trước can thiệp động mạch vành giúp xác định hình thái tổn thương động mạch vành từ đó có kế hoạch can thiệp động mạch vành bao gồm chọn stent, bóng can thiệp và các phương tiện hỗ trợ.
#Chụp cắt lớp kết quang #Siêu âm nội mạch #Can thiệp động mạch vành
Nghiên cứu trị số siêu âm Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa thai nhi bình thường từ 38 đến 41 tuần
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 3 - Trang 71 – 77 - 2017
Mục tiêu: Xác lập các trị số bình thường của Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa của thai nhi từ 38 đến 41 tuần (chỉ số xung PI, chỉ số trở kháng RI, tỉ lệ tâm thu/ tâm trương S/D). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 280 sản phụ có tuổi thai từ 38 đến 41 tuần được chẩn đoán thai đủ tháng chuyển dạ bình thường đến khám, sinh tại khoa sản Bệnh Viện Trường Đại Học Y Dược Huế từ tháng 06/2015 đến tháng 07/2017. Kết quả nghiên cứu: trong 280 sản phụ được đưa vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy rằng các trị số siêu âm Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa của thai nhi bình thường giảm dần về cuối thai kỳ hay giảm tỷ lệ nghịch với tuổi thai. Đối với động mạch rốn : chỉ số S/D ở 38 tuần 2,47 ± 0,39 giảm còn 2,14 ± 0,18 ở thai 41 tuần, chỉ số RI ở 38 tuần 0,59 ± 0,07 giảm còn 0,52 ± 0,06 ở thai 41 tuần, chỉ số PI ở 38 tuần 0,94 ± 0,15 giảm còn 0,78 ± 0,11 ở thai 41 tuần. Đối với động mạch não giữa : chỉ số S/D ở 38 tuần 4,44 ± 0,88 giảm còn 3,93 ± 0,44 ở thai 41 tuần, chỉ số RI ở 38 tuần 0,78 ± 0,05 giảm còn 0,73 ± 0,04 ở thai 41 tuần, chỉ số PI ở 38 tuần 1,72 ± 0,24 giảm còn 1,49 ± 0,14 ở thai 41 tuần. Kết luận: Trị số siêu âm Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa của thai nhi bình thường giảm dần về cuối thai kỳ hay giảm tỷ lệ nghịch với tuổi thai. Chỉ số Doppler (chỉ số xung PI, Chỉ số trở kháng RI, tỷ lệ S/D) của động mạch não giữa cao hơn chỉ số Doppler của động mạch rốn cho thấy rằng động mạch não giữa có độ trở kháng cao hơn động mạch rốn.    
Tổng số: 121   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10