Siêu âm thai là gì? Các công bố khoa học về Siêu âm thai

Siêu âm thai là một phương pháp sử dụng sóng siêu âm để tạo hình hình ảnh của thai nhi trong bụng mẹ. Qua việc phản xạ sóng siêu âm từ các mô trong cơ thể, các ...

Siêu âm thai là một phương pháp sử dụng sóng siêu âm để tạo hình hình ảnh của thai nhi trong bụng mẹ. Qua việc phản xạ sóng siêu âm từ các mô trong cơ thể, các hình ảnh sẽ được tạo ra và hiển thị lên màn hình. Phương pháp này giúp đánh giá sự phát triển của thai nhi, xác định tuổi thai, kiểm tra sự tồn tại của bất kỳ vấn đề sức khỏe nào và theo dõi tình trạng thai nhi trong suốt quá trình mang thai.
Trong siêu âm thai, một gel được áp vào vùng bụng của mẹ để truyền tải sóng siêu âm. Máy siêu âm sử dụng một thiết bị gọi là transducer, được dùng để phát và thu lại sóng siêu âm. Khi sóng siêu âm gặp mặt phẳng của các cơ quan và mô trong bụng mẹ, nó sẽ phản xạ trở lại và transducer sẽ thu sóng siêu âm điều này tạo ra hình ảnh trên màn hình máy siêu âm.

Siêu âm thai cung cấp thông tin chi tiết về một số yếu tố quan trọng như:
1. Tuổi thai: Sóng siêu âm có thể đo được kích thước của thai nhi và dựa trên đó xác định tuổi thai chính xác.
2. Quá trình phát triển: Siêu âm giúp xem xét sự phát triển của các bộ phận, cơ quan và hệ thống cơ thể của thai nhi. Nó cung cấp thông tin về kích thước và hình dạng của tai, mắt, tim, não và các cơ quan khác, cũng như sự phát triển của xương và cơ.
3. Kiểm tra vấn đề sức khỏe: Siêu âm thai có thể phát hiện các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn hoặc bất thường của thai nhi. Điều này bao gồm xác định các dị tật cơ quan, đo tuổi thai trong trường hợp tình trạng thai không phát triển đúng chu kỳ, kiểm tra tình trạng tâm thu và tâm trương, xác định sự tồn tại của các vết rạn nứt hoặc khối u trong tử cung và các vấn đề khác có liên quan đến sức khỏe của thai nhi và mẹ.
4. Xác định giới tính: Ở một giai đoạn nhất định, siêu âm thai có thể xác định giới tính của thai nhi. Tuy nhiên, đây chỉ là một dự đoán và không chính xác 100%.

Siêu âm thai là một công cụ quan trọng trong chăm sóc thai kỳ và đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo sức khỏe và phát triển của thai nhi.
Trong quá trình siêu âm thai, mẹ sẽ nằm nghiêng một chút người và áp một lớp gel mỏng lên vùng bụng. Gel này giúp truyền tải sóng siêu âm từ transducer vào cơ thể mẹ. Transducer có hai phần, một phần phát sóng siêu âm và một phần thu sóng siêu âm.

Khi sóng siêu âm được phát ra, chúng sẽ đi qua da và các mô mềm khác trong cơ thể mẹ. Khi gặp phản xạ từ các cơ quan, cấu trúc và mô trong bụng mẹ, sóng siêu âm sẽ quay trở lại transducer. Transducer sẽ thu sóng siêu âm và chuyển đổi chúng thành hình ảnh hữu ích trên màn hình máy siêu âm.

Trong quá trình siêu âm, bác sĩ hoặc nhân viên y tế di chuyển transducer trên vùng bụng mẹ để lấy được nhiều góc nhìn khác nhau của thai nhi. Hình ảnh này sẽ hiển thị trực tiếp trên màn hình máy siêu âm và có thể được ghi lại để xem lại sau này.

Siêu âm thai cho phép bác sĩ và nhân viên y tế xem rõ hơn về các cơ quan và cấu trúc của thai nhi. Điều này giúp xác định kích thước và đo lường các phần cơ thể của thai nhi, xác định tuổi thai, kiểm tra tình trạng tim, xem xét sự phát triển của cơ, xương và cơ quan, đánh giá sự di chuyển của thai nhi và kiểm tra các khối u, vết rạn nứt hoặc bất thường khác.

Siêu âm thai là một phương pháp an toàn, không xâm lấn và không gây đau đớn cho thai nhi và mẹ. Nó thường được thực hiện như một phần của chăm sóc thai kỳ thường xuyên để đảm bảo sự phát triển và sức khỏe của thai nhi trong suốt quá trình mang thai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "siêu âm thai":

Giá trị của siêu âm Doppler động mạch tử cung ở tuổi thai 11-13 tuần 6 ngày ở sản phụ thai nghén nguy cơ cao trong dự đoán sớm tiền sản giật
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 79-82 - 2014
Đánh giá giá trị dự đoán sớm TSG thông qua chỉ số trở kháng RI , chỉ số xung PI của Doppler ĐMTC trên những sản phụ thai nghén nguy cơ cao. Trong thời gian từ 1/1/2012 – 15/9/2012 có 113 bệnh nhân được lấy vào nghiên cứu trong đó có 40 trường hợp xuất hiện các dấu hiệu TSG sau 32 tuần tuổi thai, chiếm 35,4 % và 73 thai phụ không có biểu hiện bệnh lý bất thường cho tới khi sinh chiếm 64,6% Tuổi trung bình của các bà mẹ trong nghiên cứu là 31,2 với nhóm TSG là 31,7 và nhóm thai nghén bình thường là 30,8, sự khác biệt về tuổi giữa 2 nhóm chưa có ý nghĩa thống kê. Tuổi thai trung bình ở thời điểm làm siêu âm là 12 tuần 5 ngày, nhỏ nhất là 11 tuần và lớn nhất là 13 tuần 6 ngày. Ngưỡng sàng lọc phù hợp để dự đoán Tiền sản giật đối với chỉ số kháng RI động mạnh tử cung phải là 0,69 với độ nhạy 67,5%, độ đặc hiệu 61,64 %, ĐMTC trái là 0,70 với độ nhạy 65%, độ đặc hiệu 61,64 %.Với chỉ số xung PI của ĐMTC phải là 1,39 với độ nhạy 65%, độ đặc hiệu 65,75 %, với ĐMTC trái là 1,43 với độ nhạy 67,50 %, độ đặc hiệu 67,12 %. Kết luận: Siêu âm Doppler ĐMTC ở tuổi thai 11 – 13 tuần 6 ngày rất có giá trị trong dự đoán sớm TSG ở những thai phụ thai nghén nguy cơ cao.
#Tiền sản giật #Doppler #thai nghén nguy cơ cao
KẾT QUẢ TÁN SỎI QUA DA ĐƯỜNG HẦM NHỎ DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM ĐIỀU TRỊ SỎI THẬN TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm điều trị sỏi thận tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 139 bệnh nhân được tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm điều trị sỏi thận tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 5 năm 2022. Các bệnh nhân được theo dõi, thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 25.0. Kết quả: Tuổi trung bình: 52,99 ± 11,64 tuổi; kích thước sỏi trung bình là 28,96 ± 10,61 mm; kích thước sỏi ≥ 30 mm chiếm 43,9%. Số lượng sỏi nhiều hơn 1 viên trở lên chiếm 66,2%. Vị trí sỏi thường gặp là sỏi đài bể thận 80,6% (112/139 BN); điểm GSS độ III và IV chiếm 60,4%. Tỷ lệ sạch sỏi sau tán lần 1 đạt 53,2%, 20,9% được tán sỏi qua da lần 2; tỷ lệ sạch sỏi sau 1 tháng là 63,3%. Tỷ lệ tai biến, biến chứng 15,1%; bao gồm sốt sau phẫu thuật 10,1%; chảy máu không truyền máu 0,7%; chảy máu phải truyền máu 2,9%; tụ dịch quanh thận 7,2%; nút mạch do tổn thương mạch thận 0,7%; chấn thương lách 0,7%; sốc nhiễm khuẩn 0,7%. Kết quả điều trị đạt tốt chiếm 59,7%; trung bình 40,3%; không có kết quả xấu. Kết luận: Tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm là phương pháp hiệu quả và an toàn trong điều trị sỏi thận.
#Sỏi thận #tán sỏi qua da đường hầm nhỏ.
Đánh giá phương pháp mổ dọc tử cung trong xử trí rau cài răng lược
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 2 - Trang 43-45 - 2013
Mục tiêu: đánh giá đường mổ dọc tử cung lấy thai trong rau cài răng lược. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu dọc trên 18 thai phụ có hình ảnh siêu âm Doppler màu nghi ngờ rau cài răng lược, mổ lấy thai theo đường rạch dọc thân tử cung tránh không đi vào vị trí rau bám. Kết quả: Toàn bộ các trường hợp đều có tiền sử mổ lấy thai, tuổi thai lúc chẩn đoán là rau cài răng lược khá muộn phần lớn chẩn đoán sau 22 tuần thời điểm siêu âm hình thái, trung bình là 30 tuần. Mổ lấy thai được thực hiện vào tuổi thai đủ tháng. 100% các trường hợp mở dọc thân tử cung, không bóc rau, cắt tử cung ngay, lượng máu truyền trung bình là 4 đơn vị, có 1 trường hợp tổn thương bàng quang. Kết luận: Sử dụng đường rạch dọc thân tử cung lấy thai trong rau tiền đạo cài răng lược rất hiệu quả giảm lượng máu mất và giảm biến chứng tổn thương các tạng xung quanh.
#rau cài răng lược #siêu âm doppler màu #mổ cũ #mổ lấy thai
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP GỐI NGUYÊN PHÁT BẰNG TIÊM NỘI KHỚP HUYẾT TƯƠNG GIÀU TIỂU CẦU TỰ THÂN TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị thoái hoá khớp gối nguyên phát sau  tiêm nội khớp huyết tương giàu tiểu cầu tự thân 6 tháng. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang  63 bệnh nhân với 90 khớp gối bị thoái hoá được điều trị bằng tiêm nội khớp huyết tương giàu tiểu cầu tự thân dưới hướng dẫn tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ tháng 01/2020 - 11/2021. Kết quả: Sau 6 tháng can thiệp tỉ lệ đau khớp kiểu cơ học (61,1%) giảm so với ban đầu (87,8%); không còn đau kiểu viêm; dấu hiệu phá gỉ khớp (32,2%) giảm so với trước điều trị (51,1%). Dấu hiệu lục khục khớp gối (51,1%) giảm so với trước can thiệp (85,6%). Mức độ đau và khả năng vận động khớp gối được cải thiện rõ: điểm đau VAS trung bình từ 6,72 ±1,50 điểm xuống 2,63 ± 1,15 sau 3 tháng và 1,53 ± 1,30 điểm sau 6 tháng. Điểm WOMAC đau cứng khớp, vận động và WOMAC chung đều có sự ý nghĩa thống kê. Điểm WOMAC chung giảm từ 37,20± 7,68 xuống 20,57 ± 5,71 (T3) và 13,03 ± 5,52 (T6). Sự khác biệt với p < 0,05. Kết luận: Có sự cải thiện rõ các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và khả năng vận động khớp gối của bệnh nhân sau 6 tháng điều trị thoái hóa khớp gối nguyên phát bằng liệu pháp tiêm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân.
#Thoái hoá khớp gối nguyên phát #huyết tương giàu tiểu cầu #siêu âm
Nghiên cứu các đặc điểm siêu âm và kết quả xử trí thai kỳ song thai một bánh nhau tại Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 4 - Trang 56 - 65 - 2019
Mục tiêu: Nghiên cứu các đặc điểm siêu âm song thai một bánh nhau và kết quả xử trí. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 61 thai phụ được chẩn đoán song thai một bánh nhau từ tháng 8/2018 đến 3/2019 tại Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng, được nghiên cứu cắt ngang mô tả và hồi cứu. Kết quả: Thai phụ 25 - 34 tuổi tỉ lệ cao nhất 78,7%, trung bình 28,3 ± 4,2 tuổi. Nhóm thai phụ Đà Nẵng chiếm 50,8% và ngoại tỉnh 49,2%. Thai phụ là công nhân viên tỉ lệ cao nhất 36,0% (p > 0,05). Bản thân và gia đình không có tiền sử sinh song thai tỉ lệ 83,5%. Tất cả thai phụ phát hiện song thai một bánh nhau trong quí I. 8,2% trường hợp siêu âm 3 tháng đầu có chênh lệch khoảng mờ gáy (> bách phân vị 95) và chiều dài đầu - mông thai nhi. Song thai một nhau - hai ối chiếm 95,1%. Thai chậm tăng trưởng chọn lọc (sIUGR) chiếm tỉ lệ cao nhất 41%, type I:34,5%; hội chứng truyền máu cho nhận (TTTS) 11,5%. Chúng tôi giảm ối 3/7 trường hợp TTTS; 37,7% sIUGR được theo dõi đến lúc sinh, can thiệp bào thai: 1 trường hợp đốt laser (TTTS), 3 trường hợp hủy thai chọn lọc (3 TTTS kèm 2 sIUGR,). Tuổi thai lúc sinh 32 - 36 tuần tỉ lệ cao nhất 65,6%, trung bình 35,2 ± 2,5 tuần. Kết quả sau sinh: Cả 2 thai sinh ra sống tỉ lệ cao nhất 88,5%; Apgar < 7 điểm sau 1 phút: 26,3% - sau 5 phút: 19,3%; cân nặng trung bình 2211,5 ± 519,5g. Kết luận: Song thai là một thai nghén nguy cơ cao, đặc biệt song thai một bánh nhau có các biến chứng nguy hiểm tính mạng thai nhi. Vì vậy thai phụ cần khám thai và theo dõi chặt chẽ tại Bệnh viện chuyên khoa sâu sản - nhi đế phát hiện và xử trí kịp thời các biến chứng xảy ra.    
Nghiên cứu giá trị của các xét nghiệm progesteron, β-hCG huyết thanh và siêu âm đầu dò đường âm đạo trong chẩn đoán sớm thai lạc chỗ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 36-39 - 2014
Mục tiêu: Nghiên cứu giá trị của progesteron, β-hCG phối hợp với siêu âm đường âm đạo trong chẩn đoán sớm thai lạc chỗ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 200 trường hợp đươc chẩn đoán thai lạc chỗ đến khám và điều trị tại Khoa Phụ sản, Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng từ tháng 04 năm 2013 đến tháng 04 năm 2014. Kết quả: Với giá trị điểm cắt của β-hCG là 275miu/ml thì độ nhạy là 75%, độ đặc hiệu là 100%, giá trị chẩn đoán là 94,7%. Với giá trị điểm cắt của progesteron là 5 ng/ml thì độ nhạy là 86,8%, độ đặc hiệu là 100%, giá trị chẩn đoán là 91%. Với siêu âm đầu dò đường âm đạo thì độ nhạy là 97%, độ nhạy là 33,3% và giá trị chẩn đoán là 93%. kết Luận: Không có xét nghiệm nào có độ nhạy và độ đặc hiệu 100%. Muốn chẩn đoán sớm thai lạc chỗ phải kết hợp cả 03 phương pháp trên.
Nghiên cứu trị số siêu âm Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa thai nhi bình thường từ 38 đến 41 tuần
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 3 - Trang 71 – 77 - 2017
Mục tiêu: Xác lập các trị số bình thường của Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa của thai nhi từ 38 đến 41 tuần (chỉ số xung PI, chỉ số trở kháng RI, tỉ lệ tâm thu/ tâm trương S/D). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 280 sản phụ có tuổi thai từ 38 đến 41 tuần được chẩn đoán thai đủ tháng chuyển dạ bình thường đến khám, sinh tại khoa sản Bệnh Viện Trường Đại Học Y Dược Huế từ tháng 06/2015 đến tháng 07/2017. Kết quả nghiên cứu: trong 280 sản phụ được đưa vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy rằng các trị số siêu âm Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa của thai nhi bình thường giảm dần về cuối thai kỳ hay giảm tỷ lệ nghịch với tuổi thai. Đối với động mạch rốn : chỉ số S/D ở 38 tuần 2,47 ± 0,39 giảm còn 2,14 ± 0,18 ở thai 41 tuần, chỉ số RI ở 38 tuần 0,59 ± 0,07 giảm còn 0,52 ± 0,06 ở thai 41 tuần, chỉ số PI ở 38 tuần 0,94 ± 0,15 giảm còn 0,78 ± 0,11 ở thai 41 tuần. Đối với động mạch não giữa : chỉ số S/D ở 38 tuần 4,44 ± 0,88 giảm còn 3,93 ± 0,44 ở thai 41 tuần, chỉ số RI ở 38 tuần 0,78 ± 0,05 giảm còn 0,73 ± 0,04 ở thai 41 tuần, chỉ số PI ở 38 tuần 1,72 ± 0,24 giảm còn 1,49 ± 0,14 ở thai 41 tuần. Kết luận: Trị số siêu âm Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa của thai nhi bình thường giảm dần về cuối thai kỳ hay giảm tỷ lệ nghịch với tuổi thai. Chỉ số Doppler (chỉ số xung PI, Chỉ số trở kháng RI, tỷ lệ S/D) của động mạch não giữa cao hơn chỉ số Doppler của động mạch rốn cho thấy rằng động mạch não giữa có độ trở kháng cao hơn động mạch rốn.    
Đánh giá kết quả điều trị chửa tại sẹo mổ lấy thai tại bệnh viện sản nhi quảng ninh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 2 - Trang 148 – 151 - 2017
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị chửa tại sẹo mổ lấy thai tại Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 27 bệnh nhân chẩn đoán chửa tại sẹo mổ lấy thai điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh từ 01/01/2016 – 31/12/2016. Kết quả: Độ tuổi trung bình 33,4 tuổi. 19/27 bệnh nhân có tiền sử mổ lấy thai 2 lần. 18/27 bệnh nhân chỉ chậm kinh, không có triệu chứng khác phát hiện chửa tại sẹo mổ lấy thai qua siêu âm. Tất cả được chẩn đoán dựa vào siêu âm đầu dò âm đạo, 14/27 bệnh nhân có tuổi thai từ 5 đến 6 tuần, siêu âm túi thai có xu hướng phát triển về phía buồng tử cung ở 26/27 bênh nhân. Nồng độ βhCG trước điều trị từ 10000 đến 50000 mIU/ml chiếm tỷ lệ cao nhất với 10/27 bệnh nhân. 26/27 bệnh nhân được điều trị thành công bằng phương pháp hút thai dưới siêu âm, 1 bệnh nhân được hút thai dưới siêu âm kết hợp với điều trị methotrexat (MTX) toàn thân, kết quả thành công. Kết luận: Đặc điểm lâm sàng chửa tại sẹo mổ lấy thai nghèo nàn. Chẩn đoán dựa vào siêu âm đầu dò âm đạo. Điều trị bằng phương pháp hút thai dưới siêu âm cho tỷ lệ thành công cao ở tuổi thai dưới 7 tuần.
#chửa tại sẹo mổ lấy thai #triệu chứng lâm sàng #siêu âm đầu dò âm đạo.
Bước đầu xác định một số nguyên nhân gây giãn não thất thai nhi được chẩn đoán trước sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 1 - Trang 34 - 37 - 2016
Mục tiêu: Xác đinh một số nguyên nhân của giãn não thất thai nhi được chẩn đoán trước sinh bằng siêu âm hình thái và làm xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ thai nhi bằng chọc hút nước ối. Phương pháp nghiên cứu: mô tả tiến cứu. Đối tượng gồm 123 sản phụ có tuổi thai từ 20 tuần trở lên được chẩn đoán giãn não thất thai nhi tại trung tâm chẩn đoán trước sinh bệnh viện PSTƯ trong thời gian từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016. Kết quả: Giãn não thất thai nhi là khi kích thước của não thất bên đo được tại ngã tư não thất từ 10 mm trở lên. Tuổi thai phát hiện giãn não thất chủ yếu 20-28 tuần với giãn não thất nhẹ và 28-32 với giãn não thất nặng. Giãn não thất thai nhi có thể là đơn độc nhưng cũng có thể là triệu chứng của bất thường khác. Giãn não thất nặng thường đi kèm với các bất thường trong hoặc ngoài hệ thần kinh trung ương. Trong số các nguyên nhân tìm thấy được, giãn não thất do bất sản thể trai chiếm tỷ lệ cao nhất 8,94%, tiếp theo là Spina Bifida 5,69%, bất sản vách trong suốt 4,07% và thoát vị não màng não 4,07%.Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể trong nhóm giãn não thất đơn độc có chọc hút dịch ối là 5,6%. Kết luận: Giãn não thất có thể hoàn toàn chẩn đoán được trước sinh bằng siêu âm. Trong đó, giãn não thất đơn độc chiếm tỷ lệ cao nhất và tỷ lệ xác định được nguyên nhân là 51,22%. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể trong nhóm giãn não thất đơn độc là 5,6%.
#giãn não thất #nhiễm sắc thể đồ #chẩn đoán trước sinh #siêu âm thai.
Một số yếu tố của mẹ và thai ảnh hưởng tới sự chính xác của siêu âm trong ước tính trọng lượng thai
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định một số yếu tố của mẹ và thai ảnh hưởng tới sự chính xác của siêu âm trong việc ước tính trọng lượng thai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 104 cặp mẹ-con tại Phòng đẻ - Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng. Trọng lượng thai được ước tính trước sinh bằng siêu âm (không quá 48 giờ từ lúc siêu âm cho tới lúc đẻ) và trẻ được cân lại ngay sau khi sinh. Phần trăm sai số tuyệt đối giữa cân nặng ước tính và cân nặng thực khi sinh là chỉ số dùng để đánh giá mức độ chính xác của siêu âm trong ước tính trọng lượng thai, sai số này ≤ 10% cân nặng thực được coi là ước tính chính xác, sai số này > 10% cân nặng thực được coi là ước tính kém chính xác. Các yếu tố của mẹ và thai đã được so sánh giữa hai nhóm ước tính chính xác và kém chính xác. Kết quả: 88,5% các ca có ước tính chính xác, 11,5% các ca có ước tính kém chính xác. Cân nặng thực của trẻ là yếu tố khác biệt duy nhất giữa hai nhóm. Kết luận: Cân nặng thực của trẻ lúc sinh là yếu tố ảnh hưởng tới sự chính xác của siêu âm trong ước tính trọng lượng thai.
#Ước tính trọng lượng thai #siêu âm #yếu tố của mẹ và thai
Tổng số: 86   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 9